Từ xa xưa, nón lá đã hiện diện trong đời sống hằng ngày của người Việt Nam. Qua nhiều chuyện kể và tiểu thuyết. Trải qua những năm tháng thăng trầm trên quê hương, nghề chằm nón vẫn được duy trì và tồn tại đến ngày nay.
Nguồn gốc chiếc nón lá Việt Nam
Chiếc nón có lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc nhiều nơi. Trên trống đồng Ngọc Lũ, thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 – 3000 năm trước công nguyên.
Từ xa xưa, nón lá đã hiện diện trong đời sống hằng ngày của người Việt Nam. Qua nhiều chuyện kể và tiểu thuyết. Trải qua những năm tháng thăng trầm trên quê hương, nghề chằm nón vẫn được duy trì và tồn tại đến ngày nay.
Nguyên vật liệu, cách làm nón Việt Nam
Chọn lá, sấy lá, ủi lá
Nón là từ lá dừa
Để có được lá dừa làm nón phải mua từ trong Nam. Lá chuyển về chỉ là lá thô. Để lá có độ bền về thời gian cũng như màu sắc. Phải chọn lọc, phân loại lá và đem xử lí qua lưu huỳnh. Dẫu chọn lá có công phu nhưng nón làm bằng lá dừa vẫn không thể tinh xảo và đẹp bằng nón làm bằng lá cọ.

Nón làm bằng lá cọ
Làm nón bằng lá cọ phải công phu hơn. Lá phải non vừa độ, gân lá phải xanh, màu lá phải trắng xanh. Nếu lá trắng và gân lá cũng trắng thì lá đã già làm nón không đẹp.
Một chiếc nón phải có màu trắng xanh với những gân lá vẫn còn màu xanh nhẹ. Mặt lá phải bóng, khi nón đan lên phải nổi những gân lá màu xanh đẹp mắt.
Sấy khô phải sấy trên bếp than (không phơi nắng). Sau đó lại phải phơi sương tiếp từ 2 đến 4 giờ cho lá mềm. Rồi dùng một búi vải và một miếng gang đặt trên bếp than. Bếp cần có độ nóng vừa phải để ủi sao cho từng chiếc lá được phẳng.
Mỗi chiếc lá đều được chọn lựa và cắt với cùng độ dài là 50cm (lá cọ).
Chuốc vành, lên khung lá, xếp nón
Với cây mác sắt, người thợ làm nón chuốt từng nan tre. Sao cho tròn đều và có đường kính rất nhỏ. Thường chỉ nhỉnh hơn đường kính que tăm một chút.
Sau đó uốn những nan tre này thành những vòng tròn thật tròn đều. Và bóng bẩy từ nhỏ đến lớn. Mỗi cái nón sẽ cần 16 nan tre. Nan tre uốn thành vòng tròn này đặt từ nhỏ đến lớn. Đặt vào một cái khung bằng gỗ có hình chóp.
Sau đó người thợ sẽ xếp lá lên khung. Người xếp lá phải khéo và đều tay không để các phiến lá chồng lên nhau hay xô lệch.
Nón lá bài thơ xứ Huế
Nón bài thơ xứ Huế là một thành phẩm nổi tiếng. Đặc biệt nón bài thơ của xứ Huế rất mỏng. Vì chỉ có hai lớp. Lớp lá trong gồm 20 lá. Lớp lá ngoài cùng gồm 30 lá. Và lớp bài thơ được đặt nằm ở giữa.
Khi xây lá lợp lá, người thợ phải khéo léo. Sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp hay xô lệch để nón đạt được sự thanh và mỏng.
Khi soi lên ánh nắng, ta đọc được bài thơ. Nhìn thấy rõ hình cầu Tràng Tiền hay chùa Thiên Mụ. Chính những chi tiết này đã tạo nên nét đặc trưng cho nón bài thơ xứ Huế.
Chằm nón
Sau khi xếp lá cho đều và ngay ngắn lên vành, người ta bắt đầu chằm nón. Nón được chằm bằng sợi nilông dẻo, dai, săn chắc và phải có màu trắng trong suốt.
Các lá nón không được xộc xệch, đường kim mũi chỉ phải đều tăm tắp. Khi nón đã chằm hoàn tất người ta đính thêm vào chớp nón một cái “xoài”. Nó được làm bằng chỉ bóng láng để làm duyên cho chiếc nón. Sau đó mới phủ lên nón lớp dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để nón vừa đẹp vừa bền.
Ở vòng tròn lớn bằng nan tre dưới đáy hình chóp, khoảng nan thứ ba và thứ tư. Người thợ sẽ dùng chỉ kết đối xứng hai bên để buộc quai. Quai nón thường được làm bằng lụa, the, nhung,…với màu sắc tươi tắn như tím, hồng đào, xanh dương …càng làm tăng thêm nét duyên cho người đội nón.
Dáng nón
Chiếc nón lá Việt Nam đẹp không chỉ ở đường kim, mũi chỉ mà còn ở dáng nón. Chiếc nón còn đẹp bởi đây là sản phẩm đặc trưng mang nét văn hóa truyền thống. Nón được tạo nên bởi đôi tay khéo léo của những người thợ ở các làng nghề.
Những chiếc nón lá trải đi khắp nẻo đường VN. Và trở thành thân quen trong đời sống thường nhật của người phụ nữ.
Nón lá – người bạn của người phụ nữ Việt
Chiếc nón lá không chỉ là vật dụng thiết thân. Mà còn là người bạn thủy chung với người lao động. Dùng để đội đầu che mưa, che nắng khi ra đồng, đi chợ. Là chiếc quạt xua đi những giọt mồ hôi dưới nắng hè gay gắt. Và còn là vật làm duyên, tăng nét nữ tính của người phụ nữ.
Buổi tan trường, hình ảnh những cô nữ sinh với tà áo trăng tinh khôi. Nghiêng nghiêng dưới vành nón lá. Má lúm đồng tiền làm duyên đã làm say lòng. Là cảm hứng nghệ thuật của bao văn nhân, nghệ sĩ,…
Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện nét dịu dàng mềm mại kín đáo của người phụ nữ Việt Nam đã nhiều lần xuất hiện và đều nhận được những tràng pháo tay của khán giả.

Muốn nón lá được bền lâu chỉ nên đội khi trời nắng, tránh đi mưa. Sau khi dùng nên cất vào chỗ bóng râm, không phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá nón giòn và ố vàng làm mất màu trong sáng và giảm độ bền của nón .Tượng trưng cho sự thanh tao của người phụ nữ Việt Nam.
Nón lá trong nước và ngoài nước
Chiếc nón lá Việt Nam là biểu tượng của phụ nữ Việt Nam, là một sản phẩm truyền thống trên khắp mọi miền đất nước.
Nhiều người Việt xa nước, nơi đất khách quê người trông thấy hình ảnh chiếc nón lá họ có cảm giác quê hương đang hiện ra trước mắt.
Nón lá Việt Nam là hình ảnh bình dị, thân quen gắn liền với tà áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Từ xưa đến nay, nhắc đến Việt Nam hình ảnh chiếc nón lá với tà áo dài và đôi guốc cao cao tượng trưng cho sự thanh tao của người phụ nữ Việt.
Nón lá đã đi vào ca dao, dân ca và làm nên văn hóa tinh thần lâu đời của Việt Nam.
Bài hát Người Mẹ Bán Nón.
Vạt nắng trưa hè ai che nón lá miền Nam
Hạt nước chiều mưa tròn lưa nón mẹ tôi đan
Mẹ già bán nón chợ xa
Nuôi con vất vả ơi à…
Mẹ ngồi đan nón bài thơ cho con ghi nhớ.
Chỉ có lá rừng đếm biết công ơn mẹ tôi
Nhờ những vành tre đời con mới được nguyên khôi
Ngày ngày gánh nắng đội sương
Đêm đêm thức giữa canh trường
Nhìn đàn con ngủ bình yên… quên bao nỗi niềm.
Nón ơi! Bao dặm đường nón đi
Bấy nhiêu ơn mẹ xin khắc ghi
Tình mẹ sáng như trăng mùa thu
Ánh nắng soi đường con mịt mù
Lòng mẹ bao la như trời biển xa
Rồi một mai khi con thành nhân
Mẹ đã khuất xa không lời than
Đội vành nón tre suốt đời nhớ mẹ… mẹ ơi!
